title Học tập và làm theo Bác

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm, phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân
Thứ ba, 22/12/2015, 07:44 SA
Cỡ chữ Màu chữ image

Cuộc khủng hoảng còn diễn biến phức tạp, khó lường trước, có thể kéo dài trong một vài năm, gây ra suy giảm, suy thoái kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, một vấn đề nổi lên là nhân loại đang tìm cách vượt ra khỏi cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế với một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là nêu cao ý thức trách nhiệm, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.

 

Không chỉ ở Mỹ, ở Đức, mà hầu như cả thế giới đang nỗ lực cao độ trong việc thực thi các giải pháp hữu hiệu về chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm để cứu vớt các nền kinh tế. Nước Nga, sau khi Tổng thống và Thủ tướng công khai tài sản, nhiều quan chức đã công khai tài sản. Thủ tướng Nhật công du bằng máy bay nhỏ. Hàn Quốc cắt giảm dùng xe công xuống còn 30%; Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn thép Busan Hàn Quốc đi xe Deawoo. Trung Quốc có “Ngày tiết kiệm trong công sở” và thưởng 10% tài sản cho người tố cáo tham nhũng. Philippin có “Ngày không ô tô trong quân đội”, tắt điều hòa sau 16 giờ 30 v.v… Một số Bộ trưởng, Thủ tướng các nước xin từ chức, vì tự thấy không làm tròn trách nhiệm của nhân dân giao (1).

Rõ ràng là vấn đề nêu cao đạo đức công dân, phòng, chống tham nhũng, thực hiện trách nhiệm của người đứng đầu trên thế giới, cung cấp nhiều thông tin và gợi cho ta nhiều suy nghĩ bổ ích về việc thực hành đạo đức. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành trung ương khóa X (1-2009) kiểm điểm “việc nghiên cứu, vận dụng kinh nghiệm của các nước về phòng, chống tham nhũng còn ít; việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng còn chậm”. Điều quan trọng nhất là bức tranh của thế giới càng củng cố và khẳng định tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên một giá trị phổ biến toàn nhân loại trong một thế giới đã có nhiều thay đổi.

Bối cảnh đất nước cũng khác nhiều so với lúc sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những đổi thay trong đời sống kinh tế- xã hội Việt Nam, đặc biệt là quy mô nhỏ bé của nền kinh tế, những khó khăn do thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra càng khẳng định việc thực hành đạo đức theo tấm gương Hồ Chí Minh là việc làm có ý nghĩa hết sức to lớn.

Tuy nhiên, sự cần thiết phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay không phải chỉ vì những gì đang diễn ra trước mắt chúng ta, như kinh tế khó khăn; tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn... mà phải nhận thức sâu sắc rằng, thực hành đạo đức là vấn đề cơ bản và lâu dài, không chỉ đối với những nước theo định hướng XHCN mà cả nhân loại. Nhận thức không chỉ dừng lại ở chỗ kêu gọi cần phải nâng cao ý thức trách nhiệm, mà phải thấy nếu không nêu cao ý thức trách nhiệm trong mọi công việc, đặc biệt là phòng, chống tham nhũng, lãng phí, là chết. Thực tiễn cho thấy loài người muốn tồn tại và phát triển cần hai nguồn nhựa sống: nguồn nhựa vật chất - phải có kinh tế làm nền tảng; nguồn nhựa tinh thần - phải có văn hóa, đạo đức làm nền tảng. Đó là hai chân của đời sống con người. Riêng đối với Việt Nam, một nước nông nghiệp phương Đông đi lên CNXH từ hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến chuyên chế, gần trăm năm dưới chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, lại càng phải chú trọng đạo đức.

Những năm qua, chúng ta phát triển đất nước trên thế kiềng ba chân: xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm và xây dựng văn hóa làm nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, việc xây dựng văn hóa, đạo đức thường diễn ra chậm hơn so với xây dựng kinh tế. Thậm chí khi GDP đang ở mức cao (8,48% năm 2007), các nhà khoa học đã cảnh báo nguy cơ đang tiềm ẩn trong sự tăng trưởng kinh tế, mà nguy cơ này lại nằm ở “vốn xã hội”. Nơi này nơi khác, mức độ này mức độ khác, chúng ta đang phải trả giá cho sự tăng trưởng nóng mà coi nhẹ giáo dục đạo đức, yếu kém trong việc dạy làm người, không chú trọng phát triển bền vững với những yếu tố về môi trường, tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội. Thiếu tinh thần trách nhiệm, quan liêu dẫn tới tham nhũng, lãng phí- một trong những nguyên nhân gây ra sự bất công, bất bình, bức xúc trong xã hội, làm suy giảm kinh tế và lòng tin của nhân dân.

Với một cái nhìn tổng quan như trên, chúng ta dễ dàng nhận thức được rằng, trong bối cảnh mới, tuy tình hình, đặc điểm đất nước và thế giới thay đổi nhiều, nhưng tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thì không hề thay đổi, mang giá trị trường tồn.

Trong di sản về đạo đức, cùng với việc đề cập đạo đức công dân, đạo đức của từng ngành, từng lĩnh vực, từng lứa tuổi, Hồ Chí Minh chủ yếu đề cập đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, và khi nói tới cán bộ, Người thường so sánh với nhân dân. Mệnh đề “Nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” là Hồ Chí Minh chủ yếu đề cập tới trách nhiệm của cán bộ đương chức, đương quyền, so với nhân dân, họ là những người có quyền. Tại sao như vậy?

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhưng nhân dân cần được tổ chức và có người dẫn đường. Cán bộ là gốc của mọi công việc. Mọi việc thành bại đều liên quan tới cán bộ tốt hay xấu. Nhưng cán bộ lại là đầy tớ của dân, người phục vụ dân. Cán bộ, đảng viên là tấm gương của xã hội, “đi trước để làng nước theo”. Gương sáng thì dân soi, gương mờ thì dân quay lưng lại. Hồ Chí Minh chỉ rõ “đã là cán bộ thì so với nhân dân, ít nhiều đều có quyền hành, cấp cao thì quyền to, cấp thấp quyền nhỏ, Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.

Cán bộ phải hiểu vai trò, vị trí của dân và tự hiểu vai trò, vị trí của mình trong tiến trình cách mạng. Sự hiểu biết đó để thấy rằng quyền lực cán bộ đang thi hành là quyền lực của dân, trong tay dân, do dân ủy thác. Khi được ủy thác quyền lực thì cán bộ- như Bác dặn- phải hết sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận, bao giờ đồng bào cho lui thì phải vui lòng lui. “Đồng bào cho lui” nghĩa là khi cán bộ không còn tín nhiệm với nhân dân nữa, hoặc tự thấy chức vụ mình đảm nhiệm quá lớn so với tài, đức của mình, hoặc công việc phụ trách trước dân mà mình không hoàn thành... thì phải được miễn nhiệm, bãi nhiệm hay từ chức.

Cán bộ đảng viên phải hiểu rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng là của dân, thì việc phục vụ dân, công bộc của dân là lẽ đương nhiên. Mặt khác phải thấy rằng Tổ quốc là Tổ quốc chung của mọi con dân nước Việt, con Lạc cháu Hồng, mọi người phải có trách nhiệm phụng sự Tổ quốc, đặc biệt trong đó, cán bộ là đội ngũ ưu tú của dân tộc thì càng phải nêu cao tinh thần phục vụ Tổ quốc. Bác Hồ đã dạy: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Mỗi cán bộ phải nhận thức đúng đắn, sâu sắc rằng, sự khác biệt về chất của các thắng lợi chống ngoại xâm dưới sự lãnh đạo của Đảng so với các thắng lợi dưới các triểu đại phong kiến trước đây là ở chỗ thắng lợi do Đảng lãnh đạo đã “biến người nô lệ thành người tự do”. Cách mạng Tháng Tám 1945 đã dựng lên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó trở đi, nước ta là nước dân chủ: Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương đều do dân cử ra.

Những nhận thức nêu trên cho thấy việc nêu cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của cán bộ là điều tất yếu, dễ hiểu và người cán bộ của dân- chứ không phải cha mẹ của dân như thời thực dân phong kiến- phải phục vụ tốt đời sống nhân dân, phục vụ hàng ngày, phục vụ suốt đời.

Nội dung nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân trước hết thể hiện ở chỗ, người cán bộ phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước để tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân thực hiện, tạo nên sự đồng thuận trong xã hội, làm cho nhân dân hiểu và tin đường lối của Đảng. Trách nhiệm của cán bộ là hướng dẫn nhân dân thực hiện đúng và tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Cán bộ, cùng với việc chấp hành nghiêm đường lối của Đảng, thì phải đi đúng đường lối của quần chúng. Tức là đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; sẵn sàng học hỏi nhân dân; tự mình phải làm gương mẫu cần, kiệm, liêm chính để nhân dân noi theo. Đồng thời phải khắc phục các nguyên nhân của bệnh quan liêu. Đó là xa nhân dân, dẫn đến không nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý. Khinh nhân dân, cho dân không hiểu chính trị, lý luận như mình. Sợ nhân dân, tức là khi có khuyết điểm thì sợ dân phê bình, sợ mất thể diện, sợ phải sửa chữa. Không tin cậy nhân dân, tức là không hiểu rằng không có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong; có lực lượng nhân dân thì việc khó mấy, to mấy, làm cũng được. Không hiểu biết nhân dân, tức là cán bộ quên rằng nhân dân cần lợi ích thiết thực- lợi ích gần, xa; riêng, chung; bộ phận, toàn cục; đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị suông. Không yêu thương nhân dân, tức là cán bộ chỉ biết đòi hỏi dân, không biết giúp đỡ, có trách nhiệm với dân.

Điều có ý nghĩa quan trọng nhất là phải làm tròn nhiệm vụ. Nhận thức chung về làm tròn nhiệm vụ là làm tròn phần việc được giao; lời nói đi đôi với việc làm và phải chịu hậu quả về việc không hoàn thành nhiệm vụ, lời nói không đi đôi với việc làm.

Làm tròn nhiệm vụ về phía hệ thống chính trị (Đảng, Quốc hội, Chính phủ) thì phải điều tra, nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận, nhằm vào lợi ích chung của nhân dân mà đặt chính sách. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Hồ Chí Minh viết: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng.

Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, và làm cho nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành”(2). Ngược lại, “vì không biết gom góp ý kiến của quần chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của những người lãnh đạo thành ra lý luận suông, không hợp với thực tế”. Có nghị quyết, chính sách rồi thì phải “nghiêm ngặt kiểm tra, các địa phương phải kiên quyết thực hành những nghị quyết của Đảng. Kiên quyết chống lại cái thói nghị quyết một đường, thi hành một nẻo”(3). “Đảng phải luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”(4).

Về phía cán bộ, đảng viên, phải đem hết trí tuệ, tâm huyết và lực lượng làm trọn vẹn, có hiệu quả phần việc được giao, dù đó là việc to hay nhỏ, dễ hay khó. Làm tốt công việc không có nghĩa là không vấp váp khuyết điểm. Phải thấy rằng đó là sự vấp váp khuyết điểm trong tiến bộ. Và trong trường hợp đó thì phải biết tự phê bình, hoan nghênh nhân dân phê bình, kiên quyết dùi mài tinh thần trách nhiệm. Làm tròn phần việc đồng thời lời nói đi đôi với việc làm. Nếu công việc không hoàn thành, lời nói không đi đôi với việc làm, nói nhiều làm ít, nói mà không làm, nói một đường làm một nẻo, thì phải gánh chịu hậu quả.

Ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân phải gắn bó chặt chẽ giữa xây và chống. Xây ý thức “việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy cũng phải hết sức làm; việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy cũng phải hết sức tránh”. Chống thói đạo đức giả, bệnh thành tích- hình thức, cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy. Quan liêu mệnh lệnh, chủ quan, hấp tấp, tự tư tự lợi là trái hẳn với tinh thần trách nhiệm, cần phải tiêu diệt.

Muốn làm tốt những điều đó, cần có một hệ giải pháp từ phía Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Đảng phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc, toàn diện về Đảng cầm quyền; nhận thức về những bài học thành công và chưa thành công trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Những nhận thức tưởng như đơn giản hay “thuộc lòng”, nhưng không phải ai cũng hiểu và hành được. Chẳng hạn, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”; “Đảng có vững cách mạng mới thành công”, “Đảng là mỗi chúng ta”; “làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân”... Mấy chữ a, b, c đó - như cách nói của Bác- không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được.

Các giải pháp từ phía cán bộ, đảng viên gồm cả nhận thức và tu dưỡng. Trong nhận thức, rất cần những đột phá mới về tư duy mang tính cách mạng và khoa học, thể hiện phẩm chất, bản lĩnh, trí tuệ, năng lực của cán bộ. Cán bộ không dám “tự chỉ trích” với cái trí- bản lĩnh của người cách mạng; không dám nói, không dám làm, không dám chịu trách nhiệm, theo kiểu “đập đi, hò đứng”, “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi’, “theo gió bẻ buồm”, thì nói theo tinh thần của Lênin và Hồ Chí Minh- đó là một điều xấu hổ cho một Chính phủ là công bộc của dân, cho Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; cho Đảng cầm quyền. Cùng với nhận thức, cán bộ đảng viên cần tu dưỡng, rèn luyện hàng ngày, suốt đời, gắn với công việc của mình về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, về phương pháp công tác và cách lãnh đạo, v.v..

Trong bối cảnh hiện nay, cùng với việc thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí quan liêu, thì việc nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ và tinh thần dám chịu trách nhiệm, dám từ chức của cán bộ lãnh đạo như là một ứng xử văn hóa- văn hóa từ chức- là phẩm chất đạo đức hết sức quan trọng. Nó phải được xây dựng thành chế độ trách nhiệm, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Chỉ khi người cán bộ dám nghĩ dám làm, hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc và nhân dân, dám chịu trách nhiệm và phải chịu trách nhiệm trước công việc được giao thì chúng ta mới có thể vượt qua được khó khăn, thách thức, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục phát triển./.

T.Trường

Số lượng lượt xem: 1960
Trung bình (0 Bình chọn)
Tin mới hơn
Tin đã đưa